I have heard that:
On one occasion the Blessed One was staying among the Angas. Now, the Angas have a town named Assapura. There the Blessed One addressed the monks, "Monks!"



Như vầy tôi nghe.
Một thời Thế Tôn ở giữa dân chúng Anga (Ương- già), tại một xă ấp của dân chúng Anga, tên là Assapura. Lúc bấy giờ Thế Tôn gọi các Tỷ-kheo:
– Này các Tỷ-kheo.

 

"Yes, lord," the monks responded.



– Thưa vâng, bạch Thế Tôn. Những Tỷ-kheo ấy vâng đáp Thế Tôn.

 

The Blessed One said, "'Contemplative, contemplatives': That is how people perceive you. And when asked, 'What are you?' you claim that 'We are contemplatives.' So, with this being your designation and this your claim, this is how you should train yourselves: 'We will undertake & practice those qualities that make one a contemplative, that make one a brahman, so that our designation will be true and our claim accurate; so that the services of those whose robes, alms-food, lodging, and medicinal requisites we use will bring them great fruit & great reward; and so that our going forth will not be barren, but fruitful & fertile.'1


Thế Tôn nói như sau:
– Sa-môn! Sa-môn! Này các Tỷ-kheo, dân chúng biết các Ông là vậy. Và nếu các Ông được hỏi: "Các Ông là ai!" Các Ông phải tự nhận: "Chúng tôi là Sa-môn". Này các Tỷ-kheo, các Ông đă được danh xưng như vậy, đă tự nhận là như vậy, th́ này, các Tỷ-kheo, các Ông phải tự tu tập như sau: "Chúng ta sẽ thọ tŕ và thực hành những pháp tác thành Sa-môn, những pháp tác thành Bà-la-môn. Như vậy, danh xưng này của chúng ta mới chân chánh và sự tự nhận này của chúng ta mới như thật. Và những đồ cúng dường mà chúng ta thọ hưởng như y phục, đồ ăn khất thực, sàng tọa, dược phẩm trị bệnh mới có được kết quả lớn, lợi ích lớn cho chúng ta. Và chúng ta xuất gia không thành vô dụng, có kết quả, có thành tích".

 

Conscience & concern



Tàm & Quư

 

"And what, monks, are the qualities that make one a contemplative, that make one a brahman? 'We will be endowed with conscience & concern (for the consequences of wrong-doing)': That's how you should train yourselves. Now the thought may occur to you, 'We are endowed with conscience & concern. That much is enough, that much means we're done, so that the goal of our contemplative state has been reached. There's nothing further to be done,' and you may rest content with just that. So I tell you, monks. I exhort you, monks. Don't let those of you who seek the contemplative state fall away from the goal of the contemplative state when there is more to be done.



Này các Tỷ-kheo, thế nào là các pháp tác thành Sa-môn, và các pháp tác thành Bà-la-môn? "Chúng ta sẽ thành tựu tàm quư", như vậy, này các Tỷ-kheo, các Ông phải tu tập. Này các Tỷ-kheo, các Ông có thể khởi lên ư kiến: "Chúng ta đă thành tựu tàm quư đến mức độ này, như vậy là vừa đủ; đến mức độ này, như vậy đă làm xong. Chúng ta đă đạt được mục đích Sa-môn hạnh. Chúng ta không có ǵ phải làm hơn nữa". Và cho đến mức độ ấy, các Ông có thể tự thỏa măn. Này các Tỷ-kheo, Ta khuyến cáo các Ông. Này các Tỷ-kheo, Ta tuyên bố cho các Ông: Khi các Ông hướng đến mục đích Sa-môn hạnh, chớ có từ bỏ mục đích này, khi đang c̣n công việc đáng phải làm hơn nữa.

 

Purity of conduct



Các sở hành

 

"And what more is to be done? 'Our bodily conduct will be pure, clear & open, unbroken & restrained. We will not exalt ourselves nor disparage others on account of that pure bodily conduct': That's how you should train yourselves. Now the thought may occur to you, 'We are endowed with conscience & concern. Our bodily conduct is pure. That much is enough, that much means we're done, so that the goal of our contemplative state has been reached. There's nothing further to be done,' and you may rest content with just that. So I tell you, monks. I exhort you, monks. Don't let those of you who seek the contemplative state fall away from the goal of the contemplative state when there is more to be done.



Này các Tỷ-kheo, thế nào là công việc đáng phải làm hơn nữa? "Thân hành chúng ta phải được thanh tinh, minh chánh, cởi mở, không có tỳ vết, che giấu. Nhưng chúng ta không v́ thân hành thanh tịnh ấy, khen ḿnh, chê người". Như vậy, này các Tỷ-kheo, các Ông cần phải tu tập. Này các Tỷ-kheo, các Ông có thể khởi lên ư kiến: "Chúng ta đă thành tựu tàm quư, thân hành chúng ta thanh tịnh, đến mức độ này, như vậy là vừa đủ; đến mức độ này, như vậy đă làm xong. Chúng ta đă đạt được mục đích Sa-môn hạnh. Chúng ta không có ǵ phải làm hơn nữa". Và cho đến mức độ ấy, các Ông có thể tự thỏa măn. Này các Tỷ-kheo, Ta khuyến cáo các Ông. Này các Tỷ-kheo, Ta tuyên bố cho các ông: Khi các Ông hướng đến mục đích Sa-môn hạnh, chớ có từ bỏ mục đích này, khi đang c̣n công việc đáng phải làm hơn nữa.

 

And what more is to be done? 'Our verbal conduct will be pure, clear & open, unbroken & restrained. We will not exalt ourselves nor disparage others on account of that pure verbal conduct': That's how you should train yourselves. Now the thought may occur to you, 'We are endowed with conscience & concern. Our verbal conduct is pure. That much is enough, that much means we're done, so that the goal of our contemplative state has been reached. There's nothing further to be done,' and you may rest content with just that. So I tell you, monks. I exhort you, monks. Don't let those of you who seek the contemplative state fall away from the goal of the contemplative state when there is more to be done.


Này các Tỷ-kheo, thế nào là công việc đáng phải làm hơn nữa? "Khẩu hành chúng ta phải được thanh tịnh, minh chánh, cởi mở, không có tỳ vết, che giấu. Nhưng chúng ta không v́ khẩu hành thanh tịnh ấy, khen ḿnh, chê người". Như vậy, này các Tỷ-kheo, các Ông cần phải tu tập. Này các Tỷ-kheo, các Ông có thể khởi lên ư kiến: "Chúng ta đă thành tựu tàm quư, khẩu hành thanh tịnh, đến mức độ này, như vậy là vừa đủ; đến mức độ này, như vậy đă làm xong. Chúng ta đă đạt được mục đích Sa-môn hạnh. Chúng ta không có ǵ phải làm hơn nữa". Và cho đến mức độ ấy, các Ông có thể tự thỏa măn. Này các Tỷ-kheo, Ta khuyến cáo các Ông. Này các Tỷ-kheo, Ta tuyên bố cho các ông: Khi các Ông hướng đến mục đích Sa-môn hạnh, chớ có từ bỏ mục đích này, khi đang c̣n công việc đáng phải làm hơn nữa.

 

And what more is to be done? 'Our mental conduct will be pure, clear & open, unbroken & restrained. We will not exalt ourselves nor disparage others on account of that pure mental conduct': That's how you should train yourselves. Now the thought may occur to you, 'We are endowed with conscience & concern. Our mental conduct is pure. That much is enough, that much means we're done, so that the goal of our contemplative state has been reached. There's nothing further to be done,' and you may rest content with just that. So I tell you, monks. I exhort you, monks. Don't let those of you who seek the contemplative state fall away from the goal of the contemplative state when there is more to be done.


Này các Tỷ-kheo, thế nào là công việc đáng phải làm hơn nữa? "Ư hành chúng ta phải được thanh tịnh, minh chánh, cởi mở, không có tỳ vết, che giấu. Nhưng chúng ta không v́ ư hành thanh tịnh ấy, khen ḿnh, chê người". Như vậy, này các Tỷ-kheo, các Ông cần phải tu tập. Này các Tỷ-kheo, các Ông có thể khởi lên ư kiến: "Chúng ta đă thành tựu tàm quư, và ư hành thanh tịnh, đến mức độ này, như vậy là vừa đủ, đến mức độ này, như vậy đă làm xong. Chúng ta đă đạt được mục đích Sa-môn hạnh. Chúng ta không có ǵ phải làm hơn nữa". Và cho đến mức độ ấy, các Ông có thể tự thỏa măn. Này các Tỷ-kheo, Ta khuyến cáo các Ông. Này các Tỷ-kheo, Ta tuyên bố cho các ông: Khi các Ông hướng đến mục đích Sa-môn hạnh, chớ có từ bỏ mục đích này, khi đang c̣n công việc đáng phải làm hơn nữa.

 

"And what more is to be done? 'Our livelihood will be pure, clear & open, unbroken & restrained. We will not exalt ourselves nor disparage others on account of that pure livelihood': That's how you should train yourselves. Now the thought may occur to you, 'We are endowed with conscience & concern. Our bodily conduct is pure. Our verbal conduct is pure. Our mental conduct is pure. Our livelihood is pure. That much is enough, that much means we're done, so that the goal of our contemplative state has been reached. There's nothing further to be done,' and you may rest content with just that. So I tell you, monks. I exhort you, monks. Don't let those of you who seek the contemplative state fall away from the goal of the contemplative state when there is more to be done.



Này các Tỷ-kheo, thế nào là công việc đáng phải làm hơn nữa? "Sanh mạng chúng ta phải được thanh tịnh, minh chánh, cởi mở, không có tỳ vết, che giấu. Nhưng chúng ta không v́ sanh mạng thanh tịnh ấy, khen ḿnh, chê người". Như vậy, này các Tỷ-kheo, các Ông cần phải tu tập. Này các Tỷ-kheo, các Ông có thể khởi lên ư kiến: "Chúng ta đă thành tựu tàm quư, thân hành chúng ta thanh tịnh, khẩu hành thanh tịnh, ư hành thanh tịnh, sanh mạng thanh tịnh. Đến mức độ này như vậy là vừa đủ, đến mức độ này, như vậy đă làm xong. Chúng ta đă đạt được mục đích Sa-môn hạnh. Chúng ta không có ǵ phải làm hơn nữa". Và cho đến mức độ ấy, các Ông có thể tự thỏa măn. Này các Tỷ-kheo, Ta khuyến cáo các Ông. Này các Tỷ-kheo, Ta tuyên bố cho các ông: Khi các Ông hướng đến mục đích Sa-môn hạnh, chớ có từ bỏ mục đích này, đang c̣n công việc đáng phải làm hơn nữa.

 

Restraint of the senses



Hộ tŕ các căn

 

"And what more is to be done? 'We will guard the doors to our sense faculties.
On seeing a form with the eye, we will not grasp at any theme or variations by which — if we were to dwell without restraint over the faculty of the eye — evil, unskillful qualities such as greed or distress might assail us. We will practice for its restraint. We will protect the faculty of the eye. We will achieve restraint with regard to the faculty of the eye.
On hearing a sound with the ear...
On smelling an aroma with the nose...
On tasting a flavor with the tongue...
On feeling a tactile sensation with the body...
On cognizing an idea with the intellect, we will not grasp at any theme or variations by which — if we were to dwell without restraint over the faculty of the intellect — evil, unskillful qualities such as greed or distress might assail us. We will practice for its restraint. We will protect the faculty of the intellect. We will achieve restraint with regard to the faculty of the intellect': That's how you should train yourselves. Now the thought may occur to you, 'We are endowed with conscience & concern. Our bodily conduct is pure. Our verbal conduct is pure. Our mental conduct is pure. Our livelihood is pure. We guard the doors to our sense faculties. That much is enough, that much means we're done, so that the goal of our contemplative state has been reached. There's nothing further to be done,' and you may rest content with just that. So I tell you, monks. I exhort you, monks. Don't let those of you who seek the contemplative state fall away from the goal of the contemplative state when there is more to be done.



Này các Tỷ-kheo, thế nào là các công việc đáng phải làm hơn nữa? "Chúng ta phải hộ tŕ các căn.
Khi mắt thấy sắc, không nắm giữ tướng chung, không nắm giữ tướng riêng. Những nguyên nhân ǵ khiến con mắt không được chế ngự, khiến tham ái, ưu bi, các ác, bất thiện pháp khởi lên, chúng ta sẽ tự chế ngự nguyên nhân ấy, hộ tŕ con mắt, thực hành sự hộ tŕ con mắt.

Khi tai nghe tiếng...
Khi mũi ngửi hương...
Khi lưỡi nếm vị...
Khi thân cảm xúc...
Khi ư nhận thức các pháp, không nắm giữ tướng chung, không nắm giữ tướng riêng. Những nguyên nhân ǵ khiến ư căn không được chế ngự, khiến tham ái, ưu, bi, các ác, bất thiện pháp khởi lên, chúng ta sẽ tự chế ngự nguyên nhân ấy, hộ tŕ ư căn, thực hành sự hộ tŕ ư căn". Như vậy, này các Tỷ-kheo, các Ông cần phải tu tập. Này các Tỷ-kheo, các Ông có thể khởi lên ư kiến: "Chúng ta đă thành tựu tàm quư, thân hành chúng ta thanh tịnh, khẩu hành thanh tịnh, ư hành thanh tịnh, sanh mạng thanh tịnh, và các căn đă được hộ tŕ, đến mức độ này, như vậy là vừa đủ đến mức độ này, như vậy đă làm xong. Chúng ta đă đạt được mục đích Sa-môn hạnh. Chúng ta không có ǵ phải làm hơn nữa". Và cho đến mức độ ấy, các Ông có thể tự thỏa măn. Này các Tỷ-kheo, Ta khuyến cáo các Ông. Này các Tỷ-kheo, Ta tuyên bố cho các ông: Khi các Ông hướng đến mục đích Sa-môn hạnh, chớ có từ bỏ mục đích này, khi đang c̣n công việc đáng phải làm hơn nữa

 

Moderation in eating



Tiết độ trong ăn uống

 

"And what more is to be done? 'We will have a sense of moderation in eating. Considering it appropriately, we will take food not playfully, nor for intoxication, nor for putting on bulk, nor for beautification, but simply for the survival & continuance of this body, for ending its afflictions, for the support of the holy life, thinking, "I will destroy old feelings [of hunger] & not create new feelings [from overeating]. Thus I will maintain myself, be blameless, & live in comfort"': That's how you should train yourselves. Now the thought may occur to you, 'We are endowed with conscience & concern. Our bodily conduct is pure. Our verbal conduct is pure. Our mental conduct is pure. Our livelihood is pure. We guard the doors to our sense faculties. We have a sense of moderation in eating. That much is enough, that much means we're done, so that the goal of our contemplative state has been reached. There's nothing further to be done,' and you may rest content with just that. So I tell you, monks. I exhort you, monks. Don't let those of you who seek the contemplative state fall away from the goal of the contemplative state when there is more to be done.


Này các Tỷ-kheo, thế nào là các công việc đáng phải làm hơn nữa? "Chúng ta phải biết tiết độ trong ăn uống, với chánh tư duy, chúng ta thọ thực, không phải để vui đùa, không phải để đam mê, không phải để trang sức, không phải để tự làm đẹp ḿnh, mà chỉ để thân này được sống lâu và được bảo dưỡng, để (thân này) khỏi bị thương hại, để hổ trợ phạm hạnh, nghĩ rằng: "Như vậy chúng ta diệt trừ các cảm thọ cũ và không cho khởi lên cảm thọ mới, và chúng ta sẽ không có lỗi lầm, sống được an ổn". Như vậy, này các Tỷ-kheo, các Ông cần phải tu tập. Nhưng này các Tỷ-kheo, các Ông có thể khởi lên ư kiến: "Chúng ta đă thành tựu tàm quư, thân hành chúng ta thanh tịnh, khẩu hành thanh tịnh, ư hành thanh tịnh, sanh mạng thanh tịnh và các căn đă được hộ tŕ, ăn uống có tiết độ, đến mức độ này, như vậy là vừa đủ đến mức độ này, như vậy đă làm xong. Chúng ta đă đạt được mục đích Sa-môn hạnh. Chúng ta không có ǵ phải làm hơn nữa". Và cho đến mức độ ấy, các Ông có thể tự thỏa măn. Này các Tỷ-kheo, Ta khuyến cáo các Ông. Này các Tỷ-kheo, Ta tuyên bố cho các ông: Khi các Ông hướng đến mục đích Sa-môn hạnh, chớ có từ bỏ mục đích này, khi đang c̣n công việc đáng phải làm hơn nữa.

 

Wakefulness



Cảnh giác

 

"And what more is to be done? 'We will be devoted to wakefulness. During the day, sitting & pacing back & forth, we will cleanse the mind of any qualities that would hold it in check. During the first watch of the night,2 sitting & pacing back & forth, we will cleanse the mind of any qualities that would hold it in check. During the second watch of the night3 reclining on his right side, we will take up the lion's posture, one foot placed on top of the other, mindful, alert, with the mind set on getting up [either as soon as we awaken or at a particular time]. During the last watch of the night,4 sitting & pacing back & forth, we will cleanse the mind of any qualities that would hold it in check': That's how you should train yourselves. Now the thought may occur to you, 'We are endowed with conscience & concern. Our bodily conduct is pure. Our verbal conduct is pure. Our mental conduct is pure. Our livelihood is pure. We guard the doors to our sense faculties. We have a sense of moderation in eating. We are devoted to wakefulness. That much is enough, that much means we're done, so that the goal of our contemplative state has been reached. There's nothing further to be done,' and you may rest content with just that. So I tell you, monks. I exhort you, monks. Don't let those of you who seek the contemplative state fall away from the goal of the contemplative state when there is more to be done.



Này các Tỷ-kheo, thế nào là các công việc đáng phải làm hơn nữa? "Chúng ta phải chú tâm cảnh giác. Ban ngày đi kinh hành (hay) trong lúc ngồi, chúng ta phải tẩy sạch tâm tư khỏi các pháp chướng ngại. Ban đêm canh một đi kinh hành (hay) trong lúc ngồi, chúng ta phải tẩy sạch tâm tư khỏi các pháp chướng ngại. Ban đêm canh giữa, chúng ta phải nằm dáng nằm con sư tử, nghiêng bên hông tay phải, một chân đặt trên chân kia, chánh niệm tỉnh giác, tâm nghĩ đến lúc thức dậy lại. Ban đêm canh đầu thức dậy, đi kinh hành (hay) trong lúc ngồi, chúng ta phải tẩy sạch tâm tư khỏi các pháp chướng ngại". Như vậy, này các Tỷ-kheo, các Ông cần phải tu tập. Nhưng này các Tỷ-kheo, các Ông có thể khởi lên ư kiến: "Chúng ta đă thành tựu tàm quư, thân hành chúng ta thanh tịnh, khẩu hành thanh tịnh, ư hành thanh tịnh, sanh mạng thanh tịnh, các căn đă được hộ tŕ, ăn uống có tiết độ, chú tâm cảnh giác, đến mức độ này, như vậy là vừa đủ đến mức độ này, như vậy đă làm xong. Chúng ta đă đạt được mục đích Sa-môn hạnh. Chúng ta không có ǵ phải làm hơn nữa". Và cho đến mức độ ấy, các Ông có thể tự thỏa măn. Này các Tỷ-kheo, Ta khuyến cáo các Ông. Này các Tỷ-kheo, Ta tuyên bố cho các ông: Khi các Ông hướng đến mục đích Sa-môn hạnh, chớ có từ bỏ mục đích này, khi đang c̣n công việc đáng phải làm hơn nữa.

 

Mindfulness & alertness



chánh niệm & tỉnh giác

 

"And what more is to be done? We will be possessed of mindfulness & alertness. When going forward and returning, we will act with alertness. When looking toward and looking away we will act with alertness. When bending and extending our limbs we will act with alertness. When carrying our outer cloak, upper robe, & bowl we will act with alertness. When eating, drinking, chewing, & tasting we will act with alertness . When urinating & defecating we will act with alertness. when walking, standing, sitting, falling asleep, waking up, talking, & remaining silent, we will act with alertness': That's how you should train yourselves. Now the thought may occur to you, 'We are endowed with conscience & concern. Our bodily conduct is pure. Our verbal conduct... our mental conduct is pure. Our livelihood is pure. We guard the doors to our sense faculties. We have a sense of moderation in eating. We are devoted to wakefulness. We are possessed of mindfulness & alertness. That much is enough, that much means we're done, so that the goal of our contemplative state has been reached. There's nothing further to be done,' and you may rest content with just that. So I tell you, monks. I exhort you, monks. Don't let those of you who seek the contemplative state fall away from the goal of the contemplative state when there is more to be done.



Này các Tỷ-kheo, thế nào là các công việc đáng phải làm hơn nữa? "Chúng ta phải chánh niệm tỉnh giác, khi đi tới, khi đi lui đều tỉnh giác, khi nh́n thẳng, khi nh́n quanh đều tỉnh giác, khi co tay, khi duỗi tay đều tỉnh giác, khi mang y kép, b́nh bát, thượng y đều tỉnh giác, khi ăn uống, nhai, nuốt đều tỉnh giác, khi đi đại tiện, tiểu tiện đều tỉnh giác, khi đi đứng, nằm, thức, nói, yên lặng đều tỉnh giác". Như vậy, này các Tỷ-kheo, các Ông cần phải tu tập. Nhưng này các Tỷ-kheo, các Ông có thể khởi lên ư kiến: "Chúng ta đă thành tựu tàm quư, thân hành chúng ta thanh tịnh, khẩu hành thanh tịnh, ư hành thanh tịnh, sanh mạng thanh tịnh, các căn đă được hộ tŕ, ăn uống có tiết độ, chú tâm cảnh giác, chánh niệm tỉnh giác, đến mức độ này, như vậy là vừa đủ đến mức độ này, như vậy đă làm xong. Chúng ta đă đạt được mục đích Sa-môn hạnh. Chúng ta không có ǵ phải làm hơn nữa". Và cho đến mức độ ấy, các Ông có thể tự thỏa măn. Này các Tỷ-kheo, Ta khuyến cáo các Ông. Này các Tỷ-kheo, Ta tuyên bố cho các ông: Khi các Ông hướng đến mục đích Sa-môn hạnh, chớ có từ bỏ mục đích này, khi đang c̣n công việc đáng phải làm hơn nữa.

 

Abandoning the hindrances



Đoạn trừ triền cái

 

"And what more is to be done? There is the case where a monk seeks out a secluded dwelling: a forest, the shade of a tree, a mountain, a glen, a hillside cave, a charnel ground, a jungle grove, the open air, a heap of straw. After his meal, returning from his alms round, he sits down, crosses his legs, holds his body erect, and brings mindfulness to the fore.



Này các Tỷ-kheo, thế nào là các công việc đáng phải làm hơn nữa? Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo lựa một chỗ thanh vắng, tịch mịch, như khu rừng, gốc cây, khe núi, hang đá, băi tha ma, lùm cây, ngoài trời, đống rơm. Sau khi đi khất thực về và ăn xong, vị ấy ngồi kiết già, lưng thẳng, và an trú chánh niệm trước mặt.

 

"Abandoning covetousness with regard to the world, he dwells with an awareness devoid of covetousness. He cleanses his mind of covetousness. Abandoning ill will and anger, he dwells with an awareness devoid of ill will, sympathetic with the welfare of all living beings. He cleanses his mind of ill will and anger. Abandoning sloth and drowsiness, he dwells with an awareness devoid of sloth and drowsiness, mindful, alert, percipient of light. He cleanses his mind of sloth and drowsiness. Abandoning restlessness and anxiety, he dwells undisturbed, his mind inwardly stilled. He cleanses his mind of restlessness and anxiety. Abandoning uncertainty, he dwells having crossed over uncertainty, with no perplexity with regard to skillful mental qualities. He cleanses his mind of uncertainty.



Vị ấy từ bỏ tham ái ở đời, sống với tâm thoát ly tham ái, gột rửa tâm hết tham ái. Từ bỏ sân hận, vị ấy sống với tâm không sân hận, ḷng từ mẫn thương xót tất cả chúng hữu t́nh, gột rửa tâm hết sân hận. Từ bỏ hôn trầm thụy miên, vị ấy sống thoát ly hôn trầm và thụy miên, với tâm tưởng hướng về ánh sáng, chánh niệm tỉnh giác, gột rửa tâm hết hôn trầm thụy miên. Từ bỏ trạo cử hối quá, vị ấy sống không trạo cử hối tiếc, nội tâm trầm lặng, gột rửa tâm hết trạo cử hối tiếc. Từ bỏ nghi ngờ, vị ấy sống thoát khỏi nghi ngờ, không phân vân lưỡng lự, gột rửa tâm hết nghi ngờ đối với thiện pháp.

 

"Suppose that a man, taking a loan, invests it in his business affairs. His business affairs succeed. He repays his old debts and there is extra left over for maintaining his wife. The thought would occur to him, 'Before, taking a loan, I invested it in my business affairs. Now my business affairs have succeeded. I have repaid my old debts and there is extra left over for maintaining my wife.' Because of that he would experience joy and happiness.



Này các Tỷ-kheo, như một người mắc nợ liền làm các nghề nghiệp. Những nghề này được phát đạt, người ấy không những trả được nợ cũ, c̣n có tiền dư để nuôi dưỡng vợ. Người ấy nghĩ: "Ta trước kia mắc nợ nên làm các nghề nghiệp. Những nghề này được phát đạt, ta không những trả được những nợ cũ, c̣n có tiền dư để nuôi dưỡng vợ". Người ấy nhờ vậy được sung sướng, hoan hỷ.

 

"Now suppose that a man falls sick — in pain and seriously ill. He does not enjoy his meals, and there is no strength in his body. As time passes, he eventually recovers from that sickness. He enjoys his meals and there is strength in his body. The thought would occur to him, 'Before, I was sick... Now I am recovered from that sickness. I enjoy my meals and there is strength in my body.' Because of that he would experience joy and happiness.


Này các Tỷ-kheo, như một người bị bệnh, đau đớn, trầm trọng, ăn uống không tiêu, thể lực suy yếu. Sau một thời gian, người ấy khỏi bệnh, ăn uống tiêu thông, thể lực khôi phục. Người ấy nghĩ: "Ta trước kia bị bệnh, đau đớn trầm trọng, ăn uống không tiêu, thể lực suy yếu. Nay ta khỏi bệnh, ăn uống tiêu thông, thể lực khôi phục". Người ấy nhờ vậy được sung sướng, hoan hỷ.

 

"Now suppose that a man is bound in prison. As time passes, he eventually is released from that bondage, safe and sound, with no loss of property. The thought would occur to him, 'Before, I was bound in prison. Now I am released from that bondage, safe and sound, with no loss of my property.' Because of that he would experience joy and happiness.


Này các Tỷ-kheo, như một người bị nhốt trong ngục. Người ấy sau một thời gian được khỏi tù tội, an lạc kiện toàn, tài sản không bị giảm tổn. Người ấy nghĩ: "Ta trước kia bị nhốt trong ngục, nay ta được khỏi tù tội, an lạc kiện toàn, tài sản không bị giảm tổn. "Người ấy nhờ vậy được sung sướng, hoan hỷ.

 

"Now suppose that a man is a slave, subject to others, not subject to himself, unable to go where he likes. As time passes, he eventually is released from that slavery, subject to himself, not subject to others, freed, able to go where he likes. The thought would occur to him, 'Before, I was a slave. Now I am released from that slavery, subject to myself, not subject to others, freed, able to go where I like.' Because of that he would experience joy and happiness.



Này các Tỷ-kheo, như một người nô lệ, không được tự chủ, lệ thuộc người khác, không được tự do đi lại. Người ấy sau một thời gian thoát khỏi cảnh nô lệ, được tự chủ, không lệ thuộc người khác, một người thoát khỏi cảnh nô lệ, được tự chủ, không lệ thuộc người khác, một người giải thoát, được tự do đi lại.

 

"Now suppose that a man, carrying money and goods, is traveling by a road through desolate country. As time passes, he eventually emerges from that desolate country, safe and sound, with no loss of property. The thought would occur to him, 'Before, carrying money and goods, I was traveling by a road through desolate country. Now I have emerged from that desolate country, safe and sound, with no loss of my property.' Because of that he would experience joy and happiness.



Này các Tỷ-kheo, như một người giàu có, nhiều tài sản, đang đi qua băi sa mạc. Người ấy sau một thời gian đă đi khỏi băi sa mạc ấy, đến đầu làng, yên ổn, không có nguy hiểm, tài sản không bị tổn giảm. Người ấy nghĩ: "Ta trước kia giàu có, nhiều tài sản, đi qua băi sa mạc. Nay ta đă đi qua khỏi băi sa mạc ấy, yên ổn, không có nguy hiểm, tài sản không bị tổn giảm". Người ấy nhờ vậy được sung sướng, hoan hỷ.

 

"In the same way, when these five hindrances are not abandoned in himself, the monk regards it as a debt, a sickness, a prison, slavery, a road through desolate country. But when these five hindrances are abandoned in himself, he regards it as unindebtedness, good health, release from prison, freedom, a place of security. Seeing that they have been abandoned within him, he becomes glad. Glad, he becomes enraptured. Enraptured, his body grows tranquil. His body tranquil, he is sensitive to pleasure. Feeling pleasure, his mind becomes concentrated.



Cũng vậy này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo tự ḿnh, quán năm triền cái chưa xả ly, như món nợ, như bệnh hoạn, như ngục tù, như cảnh nô lệ, như con đường qua sa mạc. Này các Tỷ-kheo, cũng như không mắc nợ, không bị bệnh tật được khỏi tù tội, được tự do, đến được đất lành yên ổn. Này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo quán năm triền cái khi chúng được diệt trừ.

 

The four jhanas



Bốn tầng Thiền

 

"Quite withdrawn from sensuality, withdrawn from unskillful mental qualities, he enters and remains in the first jhana: rapture and pleasure born from withdrawal, accompanied by directed thought and evaluation. He permeates and pervades, suffuses and fills this very body with the rapture and pleasure born from withdrawal. Just as if a skilled bathman or bathman's apprentice would pour bath powder into a brass basin and knead it together, sprinkling it again and again with water, so that his ball of bath powder — saturated, moisture-laden, permeated within and without — would nevertheless not drip; even so, the monk permeates... this very body with the rapture and pleasure born of withdrawal. There's nothing of his entire body unpervaded by rapture and pleasure born from withdrawal.


Sau khi đă đoạn trừ năm triền cái này, những triền cái làm ô nhiễm tâm tư, làm yếu ớt trí tuệ, vị ấy ly dục, ly ác, bất thiện pháp chứng và trú Thiền thứ nhất, một trạng thái hỷ lạc do ly dục sanh, có tầm có tứ. Vị ấy thấm nhuần, tẩm ướt, làm cho sung măn, tràn đầy thân này với hỷ lạc do ly dục sanh, không một chỗ nào trên toàn thân không có hỷ lạc do ly dục sanh ấy thấm nhuần. Này các Tỷ-kheo, như một người hầu tắm lăo luyện, hay đệ tử người hầu tắm, sau khi rắc bột tắm trong thau bằng đồng, liền nhồi bột ấy với nước, cục bột tắm ấy được thấm nhuần nước ướt, trào trộn với nước ướt, thấm ướt cả trong lẫn ngoài với nước, nhưng không chảy thành giọt. Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo thấm nhuần, tẩm ướt, làm cho sung măn, tràn đầy thân này với hỷ lạc do ly dục sanh, không một chỗ nào trên toàn thân không được hỷ lạc do ly dục sanh ấy thấm nhuần.

 

"Furthermore, with the stilling of directed thought and evaluation, he enters and remains in the second jhana: rapture and pleasure born of composure, unification of awareness free from directed thought and evaluation — internal assurance. He permeates and pervades, suffuses and fills this very body with the rapture and pleasure born of composure. Just like a lake with spring-water welling up from within, having no inflow from the east, west, north, or south, and with the skies supplying abundant showers time and again, so that the cool fount of water welling up from within the lake would permeate and pervade, suffuse and fill it with cool waters, there being no part of the lake unpervaded by the cool waters; even so, the monk permeates... this very body with the rapture and pleasure born of composure. There's nothing of his entire body unpervaded by rapture and pleasure born of composure.


Lại nữa, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo diệt tầm và tứ, chứng và trú Thiền thứ hai, một trạng thái hỷ lạc do định sanh, không tầm không tứ, nội tĩnh nhất tâm. Vị ấy thấm nhuần, tẩm ướt, làm cho sung măn, tràn đầy thân này với hỷ lạc do định sanh, không một chỗ nào trên toàn thân không được hỷ lạc do định sanh ấy thấm nhuần. Này các Tỷ-kheo, ví như một hồ nước, nước từ trong dâng lên, phương Đông không có lỗ nước chảy ra, phương Tây không có lỗ nước chảy ra, phương Bắc không có lỗ nước chảy ra, phương Nam không có lỗ nước chảy ra, và thỉnh thoảng trời mưa lớn. Suối nước mát từ hồ nước ấy phun ra, thấm nhuần, tẩm ướt, làm cho sung măn, tràn đầy hồ nước ấy, với nước mát lạnh, không một chỗ nào của hồ nước ấy không được nước mát lạnh thấm nhuần. Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, vị ấy thấm nhuần, tẩm ướt, làm cho sung măn, tràn đầy thân ḿnh với hỷ lạc do định sanh không một chỗ nào trên toàn thân không được hỷ lạc do định sanh thấm nhuần.

 

"And furthermore, with the fading of rapture, he remains in equanimity, mindful & alert, and physically sensitive of pleasure. He enters and remains in the third jhana, of which the Noble Ones declare, 'Equanimous and mindful, he has a pleasurable abiding.' He permeates and pervades, suffuses and fills this very body with the pleasure divested of rapture. Just as in a lotus pond, some of the lotuses, born and growing in the water, stay immersed in the water and flourish without standing up out of the water, so that they are permeated and pervaded, suffused and filled with cool water from their roots to their tips, and nothing of those lotuses would be unpervaded with cool water; even so, the monk permeates... this very body with the pleasure divested of rapture. There's nothing of his entire body unpervaded with pleasure divested of rapture.


Lại nữa, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo ly hỷ trú xả, chánh niệm tĩnh giác, thân cảm sự lạc thọ mà các bậc Thánh gọi là "xả niệm lạc trú", chứng và trú Thiền thứ ba. Vị ấy thấm nhuần, tẩm ướt, làm cho sung măn, tràn đầy thân này với lạc thọ không có hỷ ấy, không một chỗ nào trên toàn thân không được lạc thọ không có hỷ ấy thấm nhuần. Này các Tỷ-kheo, ví như trong hồ sen xanh, hồ sen hồng, hồ sen trắng, có những sen xanh, sen hồng hay sen trắng. Những bông sen ấy sanh trong nước, lớn lên trong nước, không vượt khỏi nước, nuôi sống dưới nước, từ đầu ngọn cho đến gốc rễ đều thấm nhuần, tẩm ướt, tràn đầy thấu suốt bởi nước mát lạnh ấy, không một chỗ nào của toàn thể sen xanh, sen hồng hay sen trắng không được nước mát lạnh ấy thấm nhuần. Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo thấm nhuần, tẩm ướt, làm cho sung măn, tràn đầy thân này với lạc thọ không có hỷ ấy, không một chỗ nào trên toàn thân không được lạc thọ không có hỷ ấy thấm nhuần.

 

"And furthermore, with the abandoning of pleasure and stress — as with the earlier disappearance of elation and distress — he enters and remains in the fourth jhana: purity of equanimity and mindfulness, neither-pleasure nor stress. He sits, permeating the body with a pure, bright awareness. Just as if a man were sitting covered from head to foot with a white cloth so that there would be no part of his body to which the white cloth did not extend; even so, the monk sits, permeating the body with a pure, bright awareness. There's nothing of his entire body unpervaded by pure, bright awareness.


Lại nữa, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo xả lạc xả khổ, diệt hỷ ưu đă cảm thọ trước, chứng và trú Thiền thứ tư, không khổ không lạc, xả niệm thanh tịnh. Vị ấy thấm nhuần toàn thân ḿnh với tâm thuần tịnh trong sáng, không một chỗ nào trên toàn thân không được tâm thuần tịnh trong sáng ấy thấm nhuần. Này các Tỷ-kheo, ví như một người ngồi, dùng tấm vải trắng trùm đầu, không một chỗ nào trên toàn thân không được vải trắng ấy che thấu. Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, vị ấy ngồi thấm nhuần toàn thân ḿnh với tâm thuần tịnh trong sáng, không một chỗ nào trên toàn thân không được tâm thuần tịnh trong sáng ấy thấm nhuần.

 

The three knowledges



Tam minh

 

"With his mind thus concentrated, purified, and bright, unblemished, free from defects, pliant, malleable, steady, and attained to imperturbability, he directs and inclines it to knowledge of the recollection of past lives.5 He recollects his manifold past lives, i.e., one birth, two births, three births, four, five, ten, twenty, thirty, forty, fifty, one hundred, one thousand, one hundred thousand, many aeons of cosmic contraction, many aeons of cosmic expansion, many aeons of cosmic contraction and expansion, [recollecting], 'There I had such a name, belonged to such a clan, had such an appearance. Such was my food, such my experience of pleasure and pain, such the end of my life. Passing away from that state, I re-arose there. There too I had such a name, belonged to such a clan, had such an appearance. Such was my food, such my experience of pleasure and pain, such the end of my life. Passing away from that state, I re-arose here.' Thus he recollects his manifold past lives in their modes and details. Just as if a man were to go from his home village to another village, and then from that village to yet another village, and then from that village back to his home village. The thought would occur to him, 'I went from my home village to that village over there. There I stood in such a way, sat in such a way, talked in such a way, and remained silent in such a way. From that village I went to that village over there, and there I stood in such a way, sat in such a way, talked in such a way, and remained silent in such a way. From that village I came back home.' In the same way — with his mind thus concentrated, purified, and bright, unblemished, free from defects, pliant, malleable, steady, and attained to imperturbability — the monk directs and inclines it to knowledge of the recollection of past lives. He recollects his manifold past lives... in their modes and details.


Với tâm định tĩnh, thuần tịnh trong sáng, không cấu nhiễm, không phiền năo, nhu nhuyến, dễ sử dụng, vững chắc, b́nh tĩnh như vậy, vị ấy dẫn tâm, hướng tâm đến Túc mạng minh. Vị ấy nhớ đến các đời sống quá khứ, như một đời, hai đời, ba đời, bốn đời, năm đời, mười đời, hai mươi đời, ba mươi đời, bốn mươi đời, năm mươi đời, một trăm đời, một ngàn đời, một trăm ngàn đời, nhiều hoại kiếp, nhiều thành kiếp, nhiều hoại và thành kiếp. Vị ấy nhớ rằng: "Tại chỗ kia, ta có tên như thế này, ḍng họ như thế này, giai cấp như thế này, thọ khổ lạc như thế này, tuổi thọ đến mức như thế này. Sau khi chết tại chỗ kia, ta được sinh ra tại chỗ nọ. Tại chỗ ấy, ta có tên như thế này, ḍng họ như thế này, giai cấp như thế này, thọ khổ lạc như thế này, tuổi thọ đến mực như thế này. Sau khi chết tại chỗ nọ, ta được sanh ra ở đây". Như vậy, vị ấy nhớ đến nhiều đời sống quá khứ cùng với các nét đại cương và các chi tiết. Này các Tỷ-kheo, ví như một người đi từ làng ḿnh đến làng khác, từ làng ấy đi đến một làng khác nữa, và từ làng này lại trở về làng của ḿnh, người ấy nghĩ: "Ta từ làng của ḿnh đi đến làng kia, nơi đây, ta đă đứng như thế này, đă ngồi như thế này, đă nói như thế này, đă yên lặng như thế này. Từ nơi làng nọ, ta đă trở về làng của ta". Như vậy, này các Tỷ-kheo, với tâm định tĩnh, thuần tịnh trong sáng, không cấu nhiễm, không phiền năo, nhu nhuyến, dễ sử dụng, vững chắc, b́nh tĩnh như vậy, vị ấy dẫn tâm, hướng tâm đến, Túc mạng minh. Vị ấy nhớ đến các đời sống quá khứ, như một đời, hai đời... (như trên)... Như vậy, vị ấy nhớ đến nhiều đời sống quá khứ cùng với các nét đại cương và các chi tiết.

 

"With his mind thus concentrated, purified, and bright, unblemished, free from defects, pliant, malleable, steady, and attained to imperturbability, he directs and inclines it to knowledge of the passing away and re-appearance of beings. He sees — by means of the divine eye, purified and surpassing the human — beings passing away and re-appearing, and he discerns how they are inferior and superior, beautiful and ugly, fortunate and unfortunate in accordance with their kamma: 'These beings — who were endowed with bad conduct of body, speech, and mind, who reviled the noble ones, held wrong views and undertook actions under the influence of wrong views — with the break-up of the body, after death, have re-appeared in the plane of deprivation, the bad destination, the lower realms, in hell. But these beings — who were endowed with good conduct of body, speech, and mind, who did not revile the noble ones, who held right views and undertook actions under the influence of right views — with the break-up of the body, after death, have re-appeared in the good destinations, in the heavenly world.' Thus — by means of the divine eye, purified and surpassing the human — he sees beings passing away and re-appearing, and he discerns how they are inferior and superior, beautiful and ugly, fortunate and unfortunate in accordance with their kamma. Just as if there were a tall building in the central square [of a town], and a man with good eyesight standing on top of it were to see people entering a house, leaving it, walking along the street, and sitting in the central square. The thought would occur to him, 'These people are entering a house, leaving it, walking along the streets, and sitting in the central square.' In the same way — with his mind thus concentrated, purified, and bright, unblemished, free from defects, pliant, malleable, steady, and attained to imperturbability — the monk directs and inclines it to knowledge of the passing away and re-appearance of beings. He sees — by means of the divine eye, purified and surpassing the human — beings passing away and re-appearing, and he discerns how they are inferior and superior, beautiful and ugly, fortunate and unfortunate in accordance with their kamma...


Với tâm định tĩnh, thuần tịnh trong sáng, không cấu nhiễm, không phiền năo, nhu nhuyến, dễ sử dụng, vững chắc, b́nh tĩnh như vậy, vị ấy dẫn tâm, hướng tâm đến trí tuệ về sanh tử của chúng sanh. Vị ấy với Thiên nhăn thuần tịnh, siêu nhân, thấy sự sống và chết của chúng sanh. Vị ấy biết rơ rằng chúng sanh người hạ liệt kẻ cao sang, người đẹp đẽ kẻ thô xấu, người may mắn kẻ bất hạnh đều do hạnh nghiệp của họ. Những chúng sanh làm những ác hạnh về thân, lời và ư, phỉ báng các bậc Thánh, theo tà kiến, tạo các nghiệp theo tà kiến. Những người này, sau khi thân hoại mạng chung, phải sanh vào cơi dữ, ác thú, đọa xứ, địa ngục. C̣n những chúng sanh nào làm những thiện hạnh về thân, lời và ư, không phỉ báng các bậc Thánh, theo chánh kiến, tạo các nghiệp theo chánh kiến. Những người này, sau khi thân hoại mạng chung, được sanh lên thiện thú, cơi Trời, trên đời này. Như vậy, vị ấy với Thiên nhăn thuần tịnh siêu nhân, thấy sự sống chết của chúng sanh. Vị ấy biết rơ rằng chúng sanh, người hạ liệt, kẻ cao sang, người đẹp đẽ kẻ thô xấu, người may mắn, kẻ bất hạnh, đều do hạnh nghiệp của họ. Này các Tỷ-kheo, ví như có hai nhà có cửa, và ở đây, một người có mắt đứng ở giữa, người này có thể thấy các người (khác) đi vào nhà, đi ra, đi qua, đi lại. Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, vị ấy với Thiên nhăn thuần tịnh, siêu nhân, thấy sự sống chết của chúng sanh. Vị ấy biết rơ rằng chúng sanh, người hạ liệt, kẻ cao sang... đều do hạnh nghiệp của họ.

 

"With his mind thus concentrated, purified, and bright, unblemished, free from defects, pliant, malleable, steady, and attained to imperturbability, the monk directs and inclines it to the knowledge of the ending of the mental fermentations. He discerns, as it is actually present, that 'This is stress... This is the origination of stress... This is the cessation of stress... This is the way leading to the cessation of stress... These are mental fermentations... This is the origination of fermentations... This is the cessation of fermentations... This is the way leading to the cessation of fermentations.' His heart, thus knowing, thus seeing, is released from the fermentation of sensuality, the fermentation of becoming, the fermentation of ignorance. With release, there is the knowledge, 'Released.' He discerns that 'Birth is ended, the holy life fulfilled, the task done. There's nothing further for this world.' Just as if there were a pool of water in a mountain glen — clear, limpid, and unsullied — where a man with good eyesight standing on the bank could see shells, gravel, and pebbles, and also shoals of fish swimming about and resting, and it would occur to him, 'This pool of water is clear, limpid, and unsullied. Here are these shells, gravel, and pebbles, and also these shoals of fish swimming about and resting.' In the same way — with his mind thus concentrated, purified, and bright, unblemished, free from defects, pliant, malleable, steady, and attained to imperturbability — the monk directs and inclines it to the knowledge of the ending of the mental fermentations. He discerns, as it is actually present, that 'This is stress... This is the origination of stress... This is the cessation of stress... This is the way leading to the cessation of stress... These are mental fermentations... This is the origination of fermentations... This is the cessation of fermentations... This is the way leading to the cessation of fermentations.' His heart, thus knowing, thus seeing, is released from the fermentation of sensuality, the fermentation of becoming, the fermentation of ignorance. With release, there is the knowledge, 'Released.' He discerns that 'Birth is ended, the holy life fulfilled, the task done. There's nothing further for this world.'


Với tâm định tĩnh, thuần tịnh trong sáng, không cấu nhiễm, không phiền năo, nhu nhuyến, dễ sử dụng, vững chắc, b́nh tĩnh như vậy, vị ấy dẫn tâm, hướng tâm, đến Lậu tận trí. Vị ấy biết như thật: "Đây là khổ", biết như thật: "Đây là Nguyên nhân của Khổ", biết như thật: "Đây là sự Diệt khổ", biết như thật: "Đây là con đường đưa đến diệt khổ", biết như thật: "Đây là những lậu hoặc", biết như thật: "Đây là nguyên nhân củ ác lậu hoặc", biết như thật: "Đây là sự đoạn trừ các lậu hoặc", biết như thật: "Đây là con đường đưa đến sự diệt trừ các lậu hoặc". Nhờ hiểu biết như vậy, nhận thức như vậy, tâm của vị ấy thoát khỏi dục lậu, thoát khỏi hữu lậu, thoát khỏi vô minh lậu. Đối với tự thân đă giải thoát như vậy, khởi lên sự hiểu biết: "Ta đă giải thoát". Vị ấy tuệ tri: "Sanh đă tận, phạm hạnh đă thành, những việc cần làm đă làm xong, sau đời hiện tại không có đời sống nào khác nữa". Này các Tỷ-kheo, ví như tại dăy núi lớn có một hồ nước, thuần tịnh, trong sáng, không cấu nhiễm, một người có mắt, đứng trên bờ sẽ thấy con hến, con ṣ, những ḥn đá, ḥn sạn, những đàn cá bơi qua lại hay đứng một chỗ. Vị ấy nghĩ: "Đây là hồ nước thuần tịnh, trong sáng, không cấu nhiễm. Đây là những con hến, con ṣ, những ḥn đá, ḥn sạn, những đàn cá đang bơi qua lại hay đứng yên một chỗ". Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo biết như thật: "Đây là khổ... biết như thật: "Đây là Con đường đưa đến sự diệt trừ các lậu hoặc!" Nhờ hiểu biết như vậy, nhờ nhận thức như vậy, tâm của vị ấy thoát khỏi dục lậu, thoát khỏi hữu lậu, thoát khỏi vô minh lậu. Đối với tự thân đă giải thoát, vị ấy tuệ tri: "Sanh đă tận, phạm hạnh đă thành, những việc cần phải làm đă làm xong, sau đời hiện tại không có đời sống nào khác nữa".

 

"This, monks, is called a monk who is a contemplative, a brahman, washed, a master, learned, noble, an arahant.6


Này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo như vậy được gọi là Sa-môn, là Bà-la-môn, là vị đă tắm sạch sẽ, là vị đă biết và hiểu rơ, là bậc có học, là bậc Thánh, là bậc A-la-hán.

 

"And how is a monk a contemplative?7 His evil, unskillful qualities that are defiled, that lead to further becoming, create trouble, ripen in stress, and lead to future birth, aging, & death have been calmed.8 This is how a monk is a contemplative.


Này các Tỷ-kheo, như thế nào, Tỷ-kheo là Sa-môn? Vị này đă làm cho dừng lại các ác, các pháp bất thiện, những pháp này ô nhiễm, đưa đến tái sanh, đáng sợ hăi, đem lại khổ quả, đưa đến sanh, già, chết trong tương lai. Như vậy, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo là Sa-môn.

 

"And how is a monk a brahman? His evil, unskillful qualities that are defiled, that lead to further becoming, create trouble, ripen in stress, and lead to future birth, aging, & death have been expelled.9 This is how a monk is a brahman.


Và này các Tỷ-kheo, như thế nào Tỷ-kheo là Bà-la-môn? Vị này đă tẩn xuất ra ngoài các ác, các pháp bất thiện, những pháp này ô nhiễm, đưa đến tái sanh, đáng sợ hăi, đem lại khổ quả, đưa đến sanh già, chết trong tương lai. Như vậy, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo là Bà-la-môn.

 

"And how is a monk washed? His evil, unskillful qualities that are defiled, that lead to further becoming, create trouble, ripen in stress, and lead to future birth, aging, & death have been washed away. This is how a monk is washed.


Và này các Tỷ-kheo, như thế nào Tỷ-kheo đă tắm sạch sẽ? Vị này đă tắm gội sạch sẽ các ác, các pháp bất thiện, những pháp này ô nhiễm, đưa đến tái sanh, đáng sợ hăi, đem lại khổ quả, đưa đến sanh, già, chết trong tương lai. Như vậy, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo đă tắm sạch sẽ.

 

"And how is a monk a master? His evil, unskillful qualities that are defiled, that lead to further becoming, create trouble, ripen in stress, and lead to future birth, aging, & death have been mastered. This is how a monk is a master.


Và này các Tỷ-kheo, như thế nào là Tỷ-kheo đă biết và hiểu rơ? Vị này đă biết và hiểu rơ các ác, các pháp bất thiện, những pháp này ô nhiễm, đưa đến tái sanh, đáng sợ hăi, đem lại khổ quả,đưa đến sanh, già, chết trong tương lai. Như vậy, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo đă biết rơ.

 

"And how is a monk learned?10 His evil, unskillful qualities that are defiled, that lead to further becoming, create trouble, ripen in stress, and lead to future birth, aging, & death have streamed away.11 This is how a monk is learned.


Và này các Tỷ-kheo, như thế nào là Tỷ-kheo có học? Vị này đă tiêu diệt các ác, các pháp bất thiện, những pháp này ô nhiễm, đưa đến tái sanh, đáng sợ hăi, đem lại khổ quả, đưa đến sanh, già, chết trong tương lai. Như vậy, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo có học.

 

"And how is a monk noble?12 His evil, unskillful qualities that are defiled, that lead to further becoming, create trouble, ripen in stress, and lead to future birth, aging, & death have gone far away.13 This is how a monk is noble.


Và này các Tỷ-kheo, như thế nào là Tỷ-kheo được gọi là bậc Thánh? Vị này đă làm cho xa ĺa các ác pháp bất thiện, những pháp này ô nhiễm, đưa đến tái sanh, đáng sợ hăi, đem lại khổ quả, đưa đến sanh, già, chết trong tương lai. Như vậy, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo được gọi là bậc Thánh.

 

"And how is a monk an arahant? His evil, unskillful qualities that are defiled, that lead to further becoming, create trouble, ripen in stress, and lead to future birth, aging, & death have gone far away.14 This is how a monk is an arahant."


Và này các Tỷ-kheo, như thế nào là Tỷ-kheo được gọi là bậc A-la-hán? Vị này đă làm cho xa ĺa các ác, các pháp bất thiện, những pháp này ô nhiễm, đưa đến tái sanh, đáng sợ hăi, đem lại khổ quả, đưa đến sanh, già, chết trong tương lai. Như vậy, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo là bậc A-la-hán.

 

That is what the Blessed One said. Gratified, the monks delighted in the Blessed One's words.



Thế Tôn thuyết giảng như vậy. Các Tỷ-kheo ấy hoan hỷ, tín thọ lời Thế Tôn dạy.

 

Notes

1. Given the widespread misperception that arahantship is a selfish goal, it's important to take note of this statement — that part of the motivation to become an arahant is how it will benefit other people.

2. First watch: Dusk to 10 p.m.

3. Second watch: 10 p.m. to 2 a.m.

4. Third watch: 2 a.m. to dawn.

5. Lit.: "previous homes".

6. The following passages are all based on word play in the Pali.

7. Samana.

8. Samita.

9. Bahita.

10. Sotthiya.

11. Nissuta.

12. Ariya.

13, 14 Araka.

 

See also: DN 2; Dhp XXVI.

 Chủ biên và điều hành: TT Thích Giác Đẳng.

 Những đóng góp dịch thuật xin gửi về TT Thích Giác Đẳng tại giacdang@phapluan.com
Cập nhập ngày: Thứ Sáu 08-11-2006

Kỹ thuật tŕnh bày: Minh Hạnh & Thiện Pháp

| | trở về đầu trang | Home page |